Đánh giá tình hình thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân vùng biên giới Việt Nam – Lào
Trong những năm qua, công tác phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) luôn được cấp uỷ và chính quyền địa phương xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng, đặc biệt là đối với người dân tại địa bàn có chung đường biên giới với Lào.
Trong những năm qua, công tác phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) luôn được cấp uỷ và chính quyền địa phương xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng, đặc biệt là đối với người dân tại địa bàn có chung đường biên giới với Lào. Đây là khu vực miền núi, địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn, đời sống vật chất, tinh thần, phong tục, tập quán của người dân còn nghèo nàn, lạc hậu, vấn đề nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn hạn chế, cũng là một trong những nguyên nhân mà các đối tượng xấu luôn lợi dụng để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội như buôn bán, vận chuyển tàng trữ trái phép ma túy, mua bán phụ nữ, trẻ em, đưa người sang nước ngoài trái phép, tảo hôn…Theo số liệu thống kê của Công an tỉnh: 6 tháng đầu năm 2022 trên địa bàn tỉnh các cơ quan chức năng đã phát hiện và bắt giữ 632 vụ, 888 đối tượng tội phạm ma túy, trong đó có nhiều đối tượng là người đồng bào vùng biên giới thực hiện vận chuyển ma túy qua tiểu ngạch… Do đó, UBND tỉnh Nghệ An đã thường xuyên có văn bản tập trung chỉ đạo UBND các huyện có các xã biên giới giáp Lào tăng cường công tác PBGDPL, trong đó xác định cụ thể các nội dung trọng tâm, trọng điểm, đa dạng hóa các hình thức PBGDPL phù hợp để cho người dân dễ tiếp thu và dễ thực hiện, tuân thủ.
Trước yêu cầu đặt ra, đã có nhiều hình thức phù hợp và hiệu quả được áp dụng để triển khai thực hiện như: tổ chức các cuộc họp dân để phổ biến trực tiếp, gặp gỡ từng người dân để tư vấn trợ giúp pháp lý, tổ chức các hoạt động trợ giúp pháp lý lưu động, biên soạn các tờ rơi, tờ gấp bằng tiếng dân tộc, tuyên truyền trên hệ thống loa truyền thanh với nhiều nội dung sát thực như: công tác về phòng, chống ma tuý; phòng chống tệ nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em; phòng, chống bạo lực gia đình, loại trừ hiện tượng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo, an ninh tôn giáo và một số quy định về an ninh biên giới Quốc gia.
Các sở, ban, ngành, đoàn thể được phân công nhiệm vụ đã thực hiện các hoạt động tuyên truyền gắn với thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của đơn vị, trong đó, một số đơn vị đã thực hiện nhiều hình thức thiết thực và hiệu quả như:
Công an tỉnh đã có 500 cuộc nói chuyện chuyên đề pháp luật cho hơn 25.000 cán bộ, đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đào tạo nghiệp vụ cho 73 người là trưởng, phó công an xã miền núi, vùng cao. Tổ chức xây dựng và nhân rộng mô hình "xã biên giới sạch về ma túy". Tổ chức ký biên bản kết nghĩa giữa Công an tỉnh, Công an các đơn vị, địa phương với địa bàn các xã biên giới. Tăng cường 132 cán bộ, chiến sỹ cho lực lượng công an các xã biên giới nhằm đẩy mạnh đấu tranh tội phạm ma túy; trao 5.000 móc khóa an ninh trật tự cho người dân trên địa bàn biên giới tại các huyện Kỳ Sơn, Tương Dương, Con Cuông; xây dựng và duy trì hoạt động hiệu quả gần 40.000 tổ tự quản về an ninh trật tự và nhân rộng ra 928 điểm; xây dựng mô hình “Hỗ trợ cộng đồng phòng, chống tội phạm mua bán người tại xã Tam Quang, Nga My (Tương Dương), xã Quang Phong (Quế Phong); mô hình “Lá chắn” phòng chống mua bán người tại bản Hồn Diện, xã Đôn Phục (Con Cuông); mô hình “Bản làng không có tội phạm và tệ nạn xã hội” tại xã Mỹ Lý, huyện Kỳ Sơn...
Để đấu tranh quyết liệt, có hiệu quả với tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn tỉnh nói chung và trên tuyến biên giới Việt - Lào nói riêng, Giám đốc Công an tỉnh Nghệ An đã ký Quyết định số 318/QĐ-CAT-PV01 ngày 7/4/2022 về việc ban hành Đề án xây dựng “Xã biên giới sạch về ma túy”.
Bộ đội Biên phòng tỉnh duy trì có hiệu quả 84 tổ tự quản đường biên, mốc quốc giới; 716 tổ tự quản an ninh trật tự thôn, bản; tổ chức 2.589 buổi tuyên truyền cho 187.323 lượt người tham gia; tổ chức biên tập và thu âm những nội dung liên quan đến pháp luật biên giới và cuộc sống của người dân bằng 2 thứ tiếng phổ thông, tiếng đồng bào các dân tộc thiểu số để phát trên hệ thống truyền thanh nội bộ của địa phương, đơn vị; thành lập các tổ tuyên truyền lưu động sử dụng loa kéo đi đến các thôn, bản và các cụm dân cư mà hệ thống truyền thanh của xã, phường chưa tới để phát vào các ngày trong tuần; in và cấp phát 36.810 tờ rơi, tờ gấp với nội dung tuyên truyền phòng chống tội phạm ma túy, mua bán người, xuất nhập cảnh và di cư trái phép; phân công 593 đảng viên các đồn Biên phòng phụ trách 2.846 hộ gia đình ở khu vực biên giới để tuyên truyền, PBGDPL, nhất là số thanh niên không có công việc ổn định, có nguy cơ vi phạm pháp luật; phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo Nghệ An, VTV... xây dựng 121 phóng sự, 1.445 tin, bài tuyên truyền về phòng chống di cư, xuất nhập cảnh trái phép, phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội...
Báo Nghệ An xây dựng chuyên trang dân tộc miền núi phát hành vào cuối tuần với các chuyên mục “Gương sáng bản Mường”,“Dân bản nói”, duy trì chuyên mục “Đời sống và pháp luật” ở nhật báo hàng ngày và Báo Nghệ An điện tử; Phối hợp với các Văn phòng luật sư trợ giúp pháp lý miễn phí cho người dân trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng chuyên đề dài kỳ về tuyên truyền pháp luật: Chuyên đề nâng cao hiểu biết pháp luật cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số; loạt bài phòng, chống buôn bán phụ nữ trẻ em; bảo vệ an ninh biên giới, phòng, chống ma túy khu vực biên giới; hiệu quả từ các phiên tòa xét xử lưu động ở vùng cao.
Thực hiện công tác đấu tranh phòng chống mua bán người và nô lệ thời hiện đại cho hội viên, phụ nữ vùng biên giới, Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh đã tổ chức 4 cuộc truyền thông tại xã Xá Lượng, trường THPT Tương Dương 2, xã Nậm Cắn, huyện Kỳ Sơn, xã Thông Thụ, huyện Quế Phong; 01 cuộc đối thoại chính sách; 01 cuộc thi tìm hiểu kiến thức về di cư, mua bán người online tại cuộc thi Online trên trang Fanpage “Phụ nữ Nghệ An” tại xã Lượng Minh, Xá Lượng; Trường THPT Tương Dương 1, Tương Dương 2, huyện Tương Dương. Tiếp tục duy trì và nhân rộng mô hình Câu lạc bộ “Phụ nữ với pháp luật”, mô hình “Hỗ trợ cộng đồng phòng, chống mua bán người”…Triển khai xây dựng mô hình "Xây dựng cơ sở Hội vững mạnh, đồng hành cùng chi hội, tổ phụ nữ vùng dân tộc thiểu số, biên giới" tại xã Tri Lễ, huyện Quế Phong; tổ diễn đàn “Lắng nghe phụ nữ H’Mông nói”...
Sở Tư pháp đã tổ chức 161 đợt truyền thông, thông tin về trợ giúp pháp lý đến tận 437 thôn, xóm, bản đặc biệt khó khăn của các xã nghèo thuộc huyện Quế Phong, Tương Dương, Kỳ Sơn, Quỳ Hợp, Quỳ Châu; biên soạn và phát hành 11.000 tờ gấp bằng tiếng dân tộc tuyên truyền pháp luật về hộ tịch, hôn nhân gia đình...; 7.000 cuốn sách hỏi đáp pháp luật cần cho người dân cơ sở; 5.000 cuốn sách về cẩm nang Hòa giải cơ sở; 10.000 tờ gấp tuyên truyền pháp luật về ma túy, tội phạm, giao thông; tổ chức 04 buổi tọa đàm với cán bộ chính quyền cơ sở, hướng dẫn một số kỹ năng trong công tác PBGDPL, hòa giải cơ sở cho các hòa giải viên, già làng, trưởng bản; tổ chức 04 cuộc thi tìm hiểu pháp luật thông qua các trò chơi truyền thống sinh động gắn với phong tục tập quán của bà con thôn bản nhiều (Bản Na Cày, xã Tiền Phong, huyện Quế Phong; bản Pột, xã Nga My, huyện Tương Dương; xã Thanh Sơn, huyện Thanh Chương, xã Tam Hợp huyện Quỳ Hợp...)
Nhằm ổn định cuộc sống của người dân sau khi được nhập quốc tịch Việt nam, đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của công dân, Sở Tư pháp đã tổ chức 03 Hội nghị tuyên truyền pháp luật về quốc tịch, hộ tịch, kết hôn cho các trường hợp người di cư được phép cư trú tại các huyện Tương Dương, Kỳ Sơn, Quế Phong, đồng thời hướng dẫn người dân thực hiện các thủ tục hành chính để được cấp giấy đăng ký kết hôn, khai sinh…; biên soạn, in ấn và phát hành 25.000 tờ gấp có nội dung “Một số quy định của pháp luật Việt Nam về quốc tịch” cấp phát cho cán bộ và nhân dân vùng biên.
Tỉnh đoàn tổ chức Chương trình giao lưu “Dấu chân tình nguyện”, tổ chức truyền thông lưu động về phòng, chống ma túy và mua bán người tại xã Tam Hợp, huyện Tương Dương; xã Châu Bính huyện Quỳ Châu; xây dựng câu lạc bộ “Thanh niên giữ yên biên giới” tại các huyện Tương Dương, Kỳ Sơn, Quế Phong.
Thực hiện Đề án “Đầy mạnh công tác PBGDPL và tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”, “Hỗ trợ bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2018-2025”, “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2025”, Ban Dân tộc tỉnh tổ chức 126 cuộc tập huấn cho 59.629 lượt người tham dự.
Các huyện có biên giới tiếp giáp với nước bạn Lào đã thực hiện nhiều hình thức PBGDPL cho đồng bào dân tộc miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn như tập huấn tuyên truyền pháp luật, trợ giúp pháp lý, xét xử lưu động, Tủ sách pháp luật, cuộc thi tìm hiểu pháp luật... với nội dung phong phú, thiết thực với sự tham gia của đông đảo cán bộ, nhân dân, tiêu biểu: tổ chức các phiên tòa xét xử lưu động tại bản Phồng, xã Tam Hợp, huyện Quỳ Hợp; bản Khe Quỳnh, xã Xiêng My, huyện Tương Dương; bản Xốp Thặp, xã Hữu Lập, bản Hòm xã Hữu Kiệm, huyện Kỳ Sơn..... Huyện Tương Dương chọn 18 bản của các xã làm mô hình điểm tổ chức sinh hoạt Ngày Pháp luật Việt Nam; xây dựng chuyên đề phóng sự của Ngày Pháp luật Việt Nam. Huyện Anh Sơn cấp 63 băng đĩa về hỏi đáp lĩnh vực luật đất đai, dân sự, hình sự, bảo vệ môi trường, phòng, chống bạo lực gia đình. Huyện Quế Phong tổ chức thi truyền thông sân khấu hóa về Luật phòng, chống ma túy, Luật giao thông đường bộ tại các xã Tri Lễ, Quế Sơn, Hạnh Dịch, Châu Kim, Đồng Văn, Quy Phong, Cắm Muộn với hơn 5.000 người tham gia; tổ chức 03 cuộc thi “Rung chuông vàng” cho học sinh các trường THCS: Thông Thụ, Châu Thôn, Tri Lễ. Huyện Quỳ Châu tổ chức 11 cuộc thi như tìm hiểu pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, tìm hiểu pháp luật phòng, chống ma túy, chủ tịch xã với pháp luật, tìm hiểu pháp luật về bình đẳng giới… thực hiện 15 chương trình hỏi đáp pháp luật về phòng chống tham nhũng... Nhiều mô hình tuyên truyền có tính sáng tạo như: "Bản tin vùng biên" phát bằng 02 thứ tiếng (tiếng đồng bào và tiếng phổ thông) trên hệ thống truyền thanh của các bản làng; mô hình "mỗi tuần học một điều luật", mô hình "tiết học vùng biên", “Đi từng bản, gõ cửa từng nhà”, phát hành tờ gấp về tìm hiểu các văn bản pháp luật (Kỳ Sơn), tổ chức các hội nghị tuyên truyền trực tiếp bên cạnh sử dụng ngôn ngữ phổ thông kết hợp với tiếng Thái (Quế Phong)...
Bên cạnh đó các phong trào như: “Quần chúng tham gia tự quản đường biên, cột mốc và an ninh trật tự xóm, bản biên giới”, “Kết nghĩa thôn - bản hai bên biên giới”, “Thanh niên xung kích bảo vệ đường biên”... được tổ chức và duy trì; kết nghĩa 21 cặp bản hai bên biên giới, 8 đồn biên phòng với 8 đơn vị đại đội, công an Lào, nhận đỡ đầu 16 em học sinh Lào có hoàn cảnh khó khăn, trong đó huyện Kỳ Sơn hiện đã có 15 cặp bản, 2 chi hội đoàn thể và 3 đơn vị vũ trang ký kết với các bản, cụm bản và đơn vị phía Bạn và kết nghĩa 4 huyện bạn đối diện.
Tăng cường các hoạt động hợp tác giữa các cơ quan tư pháp các tỉnh có chung đường biên giới: Ký kết Biên bản ghi nhớ thảo thuận hợp tác giữa Sở Tư pháp Nghệ An và Sở Tư pháp tỉnh Xiêng Khoảng, Hủa Phăn. Ngoài ra, hai bên còn trao đổi kinh nghiệm và thông tin về công tác giải quyết các vấn đề về luật pháp và công tác tư pháp; hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp; sự phối hợp với các cơ quan liên quan của 02 tỉnh nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý và hòa giải ở cơ sở để người dân hiểu được pháp luật của hai nước, giúp họ có cách hành xử đúng pháp luật, đặc biệt là người dân khu vực biên giới của 02 tỉnh. Đồng thời, chỉ đạo tiếp tục tổ chức các cuộc trợ giúp pháp lý lưu động đến tận các xã biên giới, vùng sâu, vùng xa, xã có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống để tuyên truyền phổ biến pháp luật nói chung và pháp luật về hộ tịch, quốc tịch nói riêng và vận động nhân dân thực hiện các nghĩa vụ pháp luật của mình.
Bên cạnh các kết quả đạt được, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho người dân vùng biên giới Việt Nam – Lào vẫn còn khó khăn, vướng mắc:
- Việc triển khai công tác tuyên truyền, PBGDPL cho người dân vùng biên giới đặc biệt là người dân Lào vừa được nhập quốc tịch Việt Nam chưa đạt theo yêu cầu đề ra. Số lượng các cuộc tuyên truyền, PBGDPL có chất lượng cho người dân tại các bản vùng sâu vùng xa chưa nhiều và thường xuyên. Hầu hết đối tượng được tuyên truyền là đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, không biết tiếng Việt, lại thường xuyên di cư, chỗ ở không ổn định. Điều này đã gây khó khăn trong quá trình truyền tải các thông tin pháp luật đến với người dân.
- Đội ngũ làm công tác tuyên truyền, PBGDPL cho người dân ở cơ sở về năng lực, trình độ không đồng đều, còn hạn chế về kiến thức, kỹ năng trong công tác tuyên truyền, PBGDPL.
- Mức độ hiểu biết, nhận thức của người dân hạn chế, đời sống gặp nhiều khó khăn nên mặc dù chính quyền đã chú trọng công tác tuyên truyền, PBGDPL cho người dân nhưng hiệu quả không cao do họ chưa thực sự có ý thức tự giác trong việc tìm hiểu pháp luật. Hơn nữa nhiều địa phương miền núi còn tồn tại những phong tục, tập quán lạc hậu đã ăn sâu trong tiềm thức một bộ phận dân cư nên việc PBGDPL gặp nhiều khó khăn.
- Điều kiện, nguồn lực để triển khai thực hiện công tác phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân vùng biên còn thiếu, nhất là về kinh phí. Vì vậy, việc thực hiện tuyên truyền, PBGDPL thường xuyên, đổi mới hình thức, nội dung đạt kết quả chưa cao.
Để tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, PBGDPL cho người dân tại địa bàn có chung đường biên giới với Lào trong thời gian tới, cần phải có sự cố gắng, nỗ lực vào cuộc của toàn xã hội và thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
- Thứ nhất, cần xác định và nâng cao trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, sự vào cuộc của các ngành, các địa phương trong công tác tuyên truyền, PBGDPL, từ đó tạo sự gắn kết giữa hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và hoạt động quản lý, điều hành của các cơ quan, ban, ngành và của chính quyền địa phương đối với công tác tuyên truyền, PBGDPL cho người dân vùng biên giới.
- Thứ hai, tiếp tục tăng cường công tác quán triệt, triển khai sâu rộng Chỉ thị số 32 - CT/TW; Kết luận số 80-KL/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân và các văn bản về công tác PBGDPL nói chung và PBGDPL về cho người dân tại vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới nói riêng.
- Thứ ba, tiếp tục đổi mới hình thức, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, PBGDPL, áp dụng các hình thức sinh động, dễ hiểu, chọn lọc, phát triển các mô hình, biện pháp tuyên truyền, PBGDPL hiệu quả, phù hợp với đối tượng, địa bàn và nhu cầu của nhân dân.
- Thứ tư, định kỳ kiểm tra, đánh giá quá trình triển khai để rút ra bài học kinh nghiệm, từng bước đổi mới cả hình thức và nội dung tuyên truyền. Đẩy mạnh lồng ghép công tác PBGDPL với các hoạt động giao lưu văn hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, từ đó chia sẻ cách làm mới, làm hay về công tác PBGDPL; gắn việc tuyên truyền, PBGDPL với việc thực hiện các dự án phát triển kinh tế xã hội của địa phương; tiến hành khảo sát, đánh giá nhu cầu, nguyện vọng của người dân để có những kế hoạch phù hợp.
- Thứ năm, tăng cường công tác phối hợp giữa cơ quan tư pháp với các cơ quan như bộ đội biên phòng, công an, kiểm lâm và chính quyền địa phương các huyện, xã biên giới để tổ chức tuyên truyền, vận động bà con chấp hành các chủ trương của Đảng, pháp luật của nhà nước, đấu tranh chống các tập tục lạc hậu.
- Thứ Sáu, tiếp tục củng cố, kiện toàn, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, PBGDPL nói chung; phát huy tốt vai trò của đội ngũ già làng, trưởng bản, người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số; cần có chế độ chính sách hợp lý, ưu tiên, ưu đãi cho các các đối tượng thực hiện công tác tuyên truyền, PBGDPL cho người dân tại vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, đồng thời phải tăng cường kinh phí, có giải pháp cụ thể hơn để nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức làm công tác tuyên truyền, PBGDPL, đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn hiện nay và những năm tới./.